
Con hàu nhiễm Perkinsus Marinus ở bên phải
Nghề nuôi hàu giống xuất hiện ở huyện Kim Sơn khoảng 6 năm trước. Ngay từ đầu, chỉ có một số trang trại nhỏ do người dân địa phương quản lý để nuôi thử nghiệm. Từ hiệu quả ban đầu, nhiều người đã mạnh dạn đầu tư cơ sở vật chất, mở rộng trang trại. Đến nay, cả nước có khoảng 400 cơ sở ương giống hàu, tập trung chủ yếu ở các xã Kim Động, Kim Hải, Kim Trung.
Theo ông Vũ Trường Thu, Chủ tịch UBND xã Kim Trung, tổng diện tích nuôi trồng, sản xuất trên địa bàn xã liên tục tăng trong những năm gần đây. Năm 2020, chỉ có 76 cơ sở tham gia sản xuất, với diện tích gần 50 ha. Tuy nhiên, đến năm 2023, có 169 cơ sở với diện tích lên tới 130 ha, chiếm gần một nửa tổng diện tích sản xuất thủy sản của toàn xã.
"Năng suất hạt giống ở Kim Trung đạt khoảng 7,6 triệu hạt/ha. Hiện nông dân lãi 300 - 400 triệu đồng/ha/năm. Cá biệt có hộ có thu nhập lên tới 1 tỷ đồng/năm", ông Thu cho biết.
Sản xuất hàu giống là hướng đi mới mang lại hiệu quả kinh tế cao mà không ảnh hưởng đến môi trường. Đặc biệt, chất lượng hàu giống ở Kim Sơn tốt hơn rất nhiều so với hàu nhập khẩu cũng như hàu sản xuất ở các địa phương khác. Vì vậy, hạt giống có giá bán cao hơn và được ưa chuộng ở hầu hết các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng...
Tuy nhiên, sản xuất hàu giống ở Kim Sơn còn gặp nhiều khó khăn về điều kiện môi trường, nguồn giống bố mẹ, cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản còn nhiều bất cập. Nhiều hộ chăn nuôi còn mang tính tự phát, tiềm ẩn nguy cơ dịch bệnh. Trong đó nguy hiểm nhất là bệnh Perkinsus Marinus.
Theo ông Phạm Huy Trung, cán bộ Chi cục Thủy sản Ninh Bình được “biệt phái” về huyện Kim Sơn, Perkinsus Marinus là bệnh do ký sinh trùng đơn bào Perkinsus gây ra . Căn bệnh gây thiệt hại nghiêm trọng cho động vật thân mềm trên phạm vi toàn cầu, được Tổ chức Thú y Thế giới liệt vào danh sách bệnh cần công bố và kiểm dịch ở hàu nói riêng và động vật thân mềm nói chung.
Perkinsus Marinus ký sinh ở mang, màng áo, tế bào biểu mô ruột, các tổ chức mô liên kết của tuyến tiêu hóa và tuyến sinh dục của nhuyễn thể hai mảnh vỏ. Nó được truyền trực tiếp giữa các loài nhuyễn thể mà không cần vectơ. Lời nói của đường truyền rất nhanh. Perkinsus Marinus lần đầu tiên được tìm thấy trên hàu, sau đó là sò điệp, trai và bào ngư.
Khi bị nhiễm bệnh, hàu sẽ xuất hiện các triệu chứng như vỏ mỏng, mô chảy nước, lớp vỏ teo lại, tuyến tiêu hóa nhợt nhạt. Bào tử ký sinh xuất hiện dưới dạng các sẩn hoặc nang màu trắng nâu trên bề mặt màng áo và mang, gây tổn thương nghiêm trọng và tắc nghẽn mang, mô ruột và mô liên kết của hàu.

Ông Phạm Huy Trung, cán bộ Chi cục Thủy sản Ninh Bình (trái), giao lưu với các hộ nuôi trồng thủy sản ở huyện Kim Sơn
Ông Trung cho biết, theo nghiên cứu của các chuyên gia thủy sản, bệnh Perkinsus Marinus xảy ra trên các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ như hàu, trai, nghêu. Một trong những nguyên nhân chính khiến dịch bệnh dễ phát sinh là do nuôi thâm canh mật độ cao.
Đáng chú ý, bệnh xảy ra quanh năm nhưng tập trung nhiều nhất vào mùa thu và ít nhất vào đầu mùa xuân, khi nhiệt độ môi trường trên 20oC và độ mặn từ 9 - 12 phần nghìn. Cường độ lây nhiễm tăng cao khi độ mặn môi trường tăng lên trên 12 phần nghìn. Nhuyễn thể hai mảnh vỏ có tỷ lệ nhiễm bệnh cao, tỷ lệ tử vong lên tới 95% khi điều kiện môi trường không thuận lợi cho vật chủ.
Tại Việt Nam, Perkinsus Marinus được phát hiện lần đầu tiên trên loài trai lướt sóng ở vùng biển Kiên Giang và Bà Rịa-Vũng Tàu vào năm 2007. Đến năm 2010, loài này tiếp tục được phát hiện trên trai tại huyện Cần Giờ, TP.HCM.
Năm 2015, bệnh Perkinsus càn quét vùng nuôi ngao ở Bến Tre gây thiệt hại vô cùng nặng nề. Theo kết quả xét nghiệm của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản số 2, nghêu chết do nhiễm ký sinh trùng Perkinsus. Tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng rất cao ở tất cả các mẫu xét nghiệm (80–100%).
Theo báo cáo của Sở NN-PTNT Bến Tre, tổng diện tích thiệt hại do bệnh Perkinsus là hơn 1.000 ha. Tỷ lệ thiệt hại phổ biến là 30–40% số lượng nghêu trên bãi biển, thiệt hại ước tính gần 1.500 tấn. Đặc biệt, có hợp tác xã mất 100% diện tích nuôi trồng.