
PGS. PGS.TS Đào Thế Anh, Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS).
Trả lời phỏng vấn Báo Nông nghiệp Việt Nam bên lề tọa đàm “Việt Nam và an ninh lương thực”, TS Đào Thế Anh, Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam đã có cái nhìn sâu hơn về vấn đề an ninh lương thực. Khái niệm an ninh lương thực, theo FAO, bao gồm những mối quan tâm về chất lượng sản phẩm thực phẩm, an toàn thực phẩm và an ninh dinh dưỡng bên cạnh những mối quan tâm trước đó về đủ nguồn thực phẩm.
PGS.TS. PGS.TS Đào Thế Anh.
Theo ông Đào Thế Anh, các chính sách này khuyến khích chính quyền địa phương tham gia thúc đẩy an ninh lương thực quốc gia cũng như địa phương. Một trong những chính sách đáng chú ý là Kế hoạch hành động quốc gia chuyển đổi hệ thống lương thực Việt Nam theo hướng minh bạch, trách nhiệm giải trình và bền vững đến năm 2030 do Thủ tướng Chính phủ ban hành cuối tháng 3/2023.
Theo kế hoạch hành động này, cần có sự phối hợp giữa các bộ, ngành, đặc biệt là giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Y tế. Ngoài ra, kế hoạch hành động cũng kêu gọi sự hợp tác chặt chẽ giữa Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng như các bộ, ngành khác trong chuỗi giá trị thực phẩm.
Kế hoạch hành động này nhằm khuyến khích hợp tác công tư giữa Chính phủ Trung ương, chính quyền địa phương và khu vực tư nhân, bao gồm các hợp tác xã sản xuất và doanh nghiệp, để có những hành động quyết liệt trong việc đảm bảo an ninh lương thực và dinh dưỡng.
Kế hoạch hành động này cũng sẽ kêu gọi đầu tư và hỗ trợ kỹ thuật từ các tổ chức quốc tế khác nhau trên thế giới. Hợp tác trên quy mô toàn cầu là cần thiết vì ngành nông nghiệp cũng như an ninh lương thực đang phải đối mặt với nhiều thách thức như biến đổi khí hậu, trở ngại thị trường, dịch bệnh mới nổi, thiếu hụt tài nguyên thiên nhiên để sản xuất lúa gạo.
"Mặt khác, nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp ở Trung ương còn hạn chế so với nhu cầu, ở địa phương, nông dân vẫn khó tiếp cận tín dụng đầu tư cho sản xuất nông nghiệp. Khó khăn về tài chính là yếu tố rất quan trọng, trong khi nhu cầu đầu tư an ninh lương thực và dinh dưỡng ngày càng tăng nhanh nên việc hợp tác với các tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ và hỗ trợ kỹ thuật là rất cần thiết để thúc đẩy an ninh lương thực, đặc biệt là ở ĐBSCL”, ông Đào Thế Anh giải thích.
Theo ông Đào Thế Anh, mục tiêu của Kế hoạch hành động quốc gia về chuyển đổi hệ thống lương thực Việt Nam theo hướng minh bạch, trách nhiệm giải trình và bền vững đến năm 2030 là chuyển đổi hệ thống lương thực bao gồm sản xuất, chế biến, phân phối và tiêu dùng theo hướng minh bạch, trách nhiệm giải trình và bền vững. dựa vào lợi thế của địa phương; đảm bảo an ninh lương thực và dinh dưỡng quốc gia; nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống cho người dân địa phương; đẩy mạnh công tác phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; góp phần thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030.
Theo đó, đến năm 2030 thu nhập của dân cư nông thôn tăng gấp 2,5 đến 3 lần so với năm 2020; Tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn giảm bình quân hàng năm từ 1,0 - 1,5%; Giảm tỷ lệ hộ thiếu đói ở mức độ nghiêm trọng và trung bình xuống dưới 5%; duy trì kim ngạch xuất khẩu lương thực trên 30 tỷ USD/năm. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể gầy còm ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm xuống dưới 15%; tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm xuống dưới 3%. Tỷ lệ thừa cân, béo phì giảm xuống dưới 10% đối với trẻ em dưới 5 tuổi; dưới 19% đối với trẻ em từ 5 đến 18 tuổi; dưới 20% đối với người lớn từ 19 đến 64 tuổi. Ngoài ra, chỉ có 5 trường hợp ngộ độc cấp tính xảy ra trên 100.000 người.
Ông Đào Thế Anh cho biết, quan điểm của Việt Nam về an ninh lương thực và nông nghiệp bền vững thể hiện ở việc thúc đẩy hợp tác công tư vì nông nghiệp bền vững thông qua chuyển đổi hệ thống lương thực; thúc đẩy an toàn thực phẩm và dinh dưỡng thông qua Thực hành nông nghiệp tốt; việc sử dụng phân bón hữu cơ và thuốc trừ sâu sinh học; việc áp dụng phương pháp NAP đối với sức khỏe của đất; phát triển hệ thống ẩm thực gắn với du lịch và tiêu chuẩn; thúc đẩy các thực hành nông nghiệp sinh thái/dựa vào thiên nhiên/tái sinh; thúc đẩy năng lượng sinh khối bền vững, nông nghiệp tuần hoàn, và tái chế phụ phẩm nông nghiệp; thúc đẩy CSA; giải pháp khử cacbon và giảm phát thải khí nhà kính; ứng dụng công nghệ số trong chuỗi giá trị nông nghiệp; thúc đẩy hợp tác Nam-Nam và liên minh toàn cầu về an ninh lương thực và nông nghiệp bền vững.

Thu nhập của dân cư nông thôn đến năm 2030 tăng gấp 2,5 đến 3 lần so với năm 2020.
Những thay đổi để đối phó với sự suy giảm sản lượng gạo
Theo ông Nguyễn Ngọc Nam, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam, nhiều năm qua, cây lúa đã trở thành cây trồng chủ lực trong an ninh lương thực của Việt Nam. Do đó, chính phủ Việt Nam đã nỗ lực đáng kể để mở rộng sản xuất gạo cho cả thị trường trong nước và quốc tế.
Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc trong sản xuất lúa gạo, góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia cũng như tham gia xuất khẩu hàng năm với kim ngạch khá lớn và đóng góp đáng kể cho ngân sách quốc gia.
Trong vòng 10 năm qua, sản lượng lúa bình quân hàng năm đạt gần 43 - 45 triệu tấn gạo, tiêu thụ trong nước 27 - 28 triệu tấn, xuất khẩu 6 - 6,5 triệu tấn ra thị trường quốc tế.
Sản xuất lúa gạo liên tục giảm trong những năm gần đây do nhiều yếu tố như chuyển đổi cơ cấu cây trồng; giảm diện tích sản xuất lúa; tăng giống lúa chất lượng cao; sản xuất manh mún, nhỏ lẻ tại các hộ gia đình. Ngoài ra, sản lượng lúa giảm còn chịu tác động của một số yếu tố môi trường như biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn, bão, lũ, sâu bệnh và đại dịch Covid-19.
Theo ông Nam, để đảm bảo nguồn gạo dự trữ quốc gia, Hiệp hội Lương thực Việt Nam cần phối hợp với các bên liên quan hướng dẫn doanh nghiệp xuất khẩu thu mua gạo thông qua hợp đồng ký kết với người sản xuất phù hợp với chính sách hiện hành của Nhà nước.
Mặt khác, Hiệp hội Lương thực Việt Nam cần tham gia đề xuất chính sách xuất khẩu gạo phù hợp với bối cảnh, giải quyết các vấn đề như biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, bất khả kháng ảnh hưởng đến sản lượng…
"Việc chuyển đổi giống, chất lượng gạo xuất khẩu là kết quả trực tiếp của nhu cầu thị trường. Nhiều chính sách, cơ chế khuyến khích của Chính phủ đã tạo điều kiện cho việc xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam chất lượng cao", ông Nam nói.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 583/QĐ-TTg ngày 26/5/2023 phê duyệt Chiến lược phát triển xuất khẩu gạo Việt Nam đến năm 2030 với mục tiêu nâng cao hiệu quả và tính bền vững của xuất khẩu gạo. Theo đó, lượng gạo xuất khẩu dự kiến sẽ giảm xuống còn 4 triệu tấn với kim ngạch 2,62 tỷ USD vào năm 2030. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu gạo bình quân sẽ giảm 2,4% từ năm 2022 đến năm 2025 và 3,6% từ năm 2026 đến năm 2030.
Cơ cấu thị trường cũng sẽ được điều chỉnh để phù hợp với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu chủng loại gạo xuất khẩu và xu hướng mới của thế giới. Cụ thể, những thay đổi sau dự kiến vào năm 2025: xuất khẩu sang châu Á sẽ chiếm 60%, châu Phi 22%, Trung Đông 4%, châu Âu 3%, châu Mỹ 7% và châu Đại Dương 4%. Đến năm 2030, xuất khẩu sang châu Á chiếm 55%, châu Phi 23%, Trung Đông 5%, châu Âu 5%, châu Mỹ 8% và châu Đại Dương 4%.
Người dịch Nguyễn Hải Long